Chuyển tới nội dung
Phân biệt Kế toán Quản trị và Kế toán Tài chính

Phân biệt Kế toán Quản trị và Kế toán Tài chính

15/09/2021

Vì có sự khác biệt về mục đích và đối tượng sử dụng thông tin, nên kế toán quản trị và kế toán tài chính cũng có những điểm khác nhau cơ bản.

 

Vậy hai loại hình kế toán này là gì? 

Kế toán quản trị là một hệ thống thực hiện việc thu thập, xử lý và truyền đạt thông tin đến các nhà quản trị nội bộ doanh nghiệp. Từ đó, giúp nhà quản trị đưa ra những quyết định kinh doanh đúng đắn trong tương lai, đồng thời làm nền tảng cho việc quản trị doanh nghiệp theo hệ thống, hướng đến phát triển doanh nghiệp bền vững. 

Kế toán tài chính là việc ghi chép, phản ánh, tổng hợp số liệu, lập BCTC phục vụ nhu cầu cung cấp thông tin đến các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp, tổ chức như: các cổ đông, cơ quan chức năng (thuế, thanh tra…), các chủ nợ, ngân hàng... Mục đích phục vụ cho các nhu cầu quản lý vĩ mô. 

Vì có sự khác biệt  về mục đích  và đối tượng sử dụng thông tin, nên kế toán quản trị và kế toán tài chính cũng có những điểm khác nhau  cơ bản như sau:  

A.             Đối tượng sử dụng thông tin 

Kế toán quản trị có đối tượng sử dụng thông tin là các thành viên nội bộ của doanh nghiệp, ví dụ: Ban giám đốc, chủ sở hữu, những nhà quản lý, giám sát viên,... còn kế toán tài chính lại có đối tượng chủ yếu ở bên ngoài doanh nghiệp như: các cổ đông, khách hàng, người cho vay, nhà cung cấp và chính phủ (cơ quan thuế, cơ quan quản lý tài chính...). 

B.            Đặc điểm thông tin 

Về thông tin, kế toán tài chính phải tuân thủ các nguyên tắc theo chuẩn mực và chế độ hiện hành của kế toán tại từng quốc gia, cũng như với cả nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế về kế toán được các quốc gia công nhận. 

Trong khi đó, do yêu cầu phải nhạy bén và nắm bắt nhanh các cơ hội kinh doanh đa dạng nên thông tin kế toán quản trị cần linh hoạt, nhanh chóng và tùy theo vào từng quyết định cụ thể của người quản lý. Thông tin của kế toán quản trị không buộc phải tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực kế toán chung; các quy định của Nhà nước về kế toán quản trị (nếu có) cũng chỉ mang tính chất hướng dẫn.  

C.            Tính pháp lý của kế toán 

Tổ chức công tác kế toán quản trị mang tính nội bộ, thuộc thẩm quyền của từng doanh nghiệp, sao cho phù hợp với đặc thù quản lý, yêu cầu quản lý, điều kiện và khả năng quản lý cụ thể của từng đơn vị. 

Còn kế toán tài chính thì có tính pháp lệnh, tức là hệ thống sổ, ghi chép, trình bày và cung cấp thông tin đều phải tuân theo các quy định thống nhất nếu muốn được thừa nhận. 

D.            Hình thức của thông tin 

Kế toán tài chính có thông tin chủ yếu được thể hiện ở hình thức giá trị. Còn kế toán quản trị được biểu hiện ở cả hai hình thái là: hiện vật và giá trị. 

Kế toán tài chính là thông tin phản ánh về những nghiệp vụ kinh tế đã phát sinh, đã xảy ra. Trong khi đó, vì phần lớn nhiệm vụ của nhà quản trị là lựa chọn phương án, đề án cho một sự kiện hoặc một quá trình chưa xảy ra, nên thông tin của kế toán quản trị chủ yếu đặt trọng tâm cho tương lai. 

Kế toán tài chính có thông tin chủ yếu là các thông tin kế toán thuần tuý, được thu thập từ các chứng từ kế toán. Còn trong kế toán quản trị lại thu thập thông tin nhằm phục vụ cho chức năng ra quyết định của nhà quản lý và thường không có sẵn. Vì vậy, ngoài việc dựa vào hệ thống ghi chép ban đầu của kế toán, kế toán quản trị còn phải vận dụng nhiều phương pháp khác nhau như: thống kê, kinh tế học, hạch toán nghiệp vụ, quản lý để tổng hợp, phân tích và xử lý thông tin thành dạng có thể sử dụng được phù hợp với mục đích ban đầu. 

E.            Cách thức báo cáo sử dụng 

Các báo cáo được sử dụng trong kế toán tài chính là báo cáo kế toán tổng hợp toàn doanh nghiệp (gọi là các Báo cáo tài chính). Tại đó, phản ánh tổng quát về nguồn vốn, tài sản, kết quả hoạt động của doanh nghiệp trong một thời kỳ (gồm Bảng cân đối kế toán; Báo cáo lưu chuyển tiền tệ; Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh; Thuyết minh báo cáo tài chính). 

Còn báo cáo của kế toán quản trị lại đi sâu vào từng bộ phận, từng khâu công việc của doanh nghiệp (như báo cáo chi phí sản xuất và giá thành, báo cáo nợ phải trả, báo cáo nhập xuất và tồn kho của hàng tồn kho...). 

F.            Kỳ báo cáo 

Báo cáo của kế toán tài chính được lập định kỳ, thường là hàng năm. Còn kế toán quản trị thực hiện kỳ báo cáo thường xuyên và ngắn hơn kỳ báo cáo của kế toán tài chính, tùy theo yêu cầu quản trị doanh nghiệp.  

Qua các tiêu chí phân biệt vừa nêu trên, chắc chắn rằng các đối tượng liên quan sẽ dễ dàng so sánh, phân biệt được điểm khác nhau của kế toán quản trị và kế toán tài chính. Từ đó, giúp doanh nghiệp vận hành hoạt động kinh doanh hiệu quả, tránh những nhầm lẫn không đáng có. 

Kế toán quản trị có vai trò ngày càng quan trọng trong công tác quản lý và điều hành doanh nghiệp. Nếu bạn muốn trở thành một kế toán quản trị chuyên nghiệp hãy cùng Toptrain trang bị cho bản thân những kiến thức đầy đủ với khóa học KẾ TOÁN QUẢN TRỊ - Cấp độ Chuyên sâu (toptrain.edu.vn) .  


Bài viết khác
Lịch khai giảng